Luật thi đấu sân 5 người là hệ thống quy định của FIFA trong việc chơi bóng đá, kể cả bóng đá trên sân cỏ chính thức, bóng đá trong nhà…, áp dụng trên tất cả các nước.
Những đặc điểm của sân được xác định theo hình vẽ 1 và 2 sau đây:
Sân hình chữ nhật, chiều dọc tối đa 42m và tối thiểu 25m, chiều ngang tối đa 25m và tối thiểu 15m. Trong mọi trường hợp chiều dọc sân phải lớn hơn chiều ngang sân.
Các đường giới hạn trên sân phải kẻ rõ ràng có bề rộng 8cm. Đường giới hạn theo chiều dọc sân gọi là đường biên dọc và đường giới hạn theo chiều ngang sân gọi là đường biên ngang. Đường giới hạn nửa sân được kẻ theo suốt chiều ngang của sân. ~ chính giữa đường giới hạn này có một điểm rõ ràng gọi là tâm của sân. Lấy điểm này làm tâm, kể một vòng tròn có bán kính 3m.
Từ biên ngang của mỗi phần sân, lấy chân 2 cột dọc cầu môn làm tâm kẻ vào trong sân 1/4 đường tròn có bán kính 6m, nối điểm cuối của 2 cung 1/4 đường tròn được đoạn thẳng dài 3,16m song song và cách đều đường biên ngang (đường cầu môn) 6m. Khu vực trong giới hạn bởi những đường kẻ đó gọi là khu phạt đền. Đường giới hạn này gọi là đường 6m.
Trên đường 6m và ở giữa đoạn thẳng 3,16m có một điểm rõ ràng. Đó là điểm phạt đền thứ nhất.
Trên đường thẳng góc với biên ngang ở vị trí cách biên ngang 10m có một điểm rõ ràng. Đó là điểm phạt đền thứ hai.
a. Lấy tâm là giao điểm của biên dọc và biên ngang của mỗi góc sân, kẻ phía trong sân 1/4 đường tròn có bán kính 25cm. Đây là vị trí đặt bóng khi đá quả phạt góc.
b. Có thể kẻ phía ngoài sân một đoạn thẳng vuông góc với đường biên ngang cách điểm góc sân 5mđể xác định vị trí đứng của cầu thủ đội phòng thủ khi đối phương thực hiện quả phạt góc.
Trên đường biên dọc phía đặt ghế ngồi của cầu thủ dự bị, mỗi đội bóng có khu vực thay đổi cầu thủ dự bị của đội mình. Khu vực này nằm trên đường biên dọc có độ dài 5m, cách đường giới hạn nửa sân 5m, được xác định bởi 2 đoạn thẳng vuông góc với đường biên dọc và có độ dài 80cm (40cm ở phía trong và 40cm ở phía ngoài sân). Khi thay người, các cầu thủ phải ra, vào trong khu vực thay người của đội mình.
Ghi chú: Trong giờ nghỉ giữa 2 hiệp, khu vực thay người của 2 đội sẽ hoán đổi để việc thay người của đội bóng được thuận lợi.
Giữa mỗi đường biên ngang có một khung cầu môn, gồm hai cột dọc vuông góc với mặt sân, cách nhau 3m (tính từ mép trong) được nối với nhau bằng xà ngang song song và cách mặt sân 2m (tính từ mép dưới xà). Bề rộng và bề dày của cột dọc, xà ngang phải cùng kích thước là 8cm.
Khung cầu môn có thể tháo rời được, nhưng trước trận đấu phải lắp đặt chặt chẽ, an toàn và gắn cố định xuống mặt sân. Lưới phải có khung đỡ thích hợp phía sau cầu môn và được mắc chắc chắn vào xà ngang, cột dọc và mặt sân.
Mặt sân phải bằng phẳng và không thô nhám. Khuyến khích nên dùng mặt sân lát gỗ hoặc phủ chất liệu. Không được dùng mặt sân bằng bê tông hoặc tráng nhựa đường.
Ghi chú: Lưới cầu môn phải làm bằng sợi vải, sợi đay hoặc dây nilon. Tuy nhiên những sợi nilon không được nhỏ hơn sợi vải, sợi đay.
1. Trong những trận đấu quốc tế, kích thước của sân phải là: chiều dọc 38 - 42m và chiều ngang là: 18 - 22m.
2. Trong trường hợp đường biên ngang có kích thước: 15m đến 16m thì bán kính của cung 1/4 vòng tròn phải là 4m. Nhưng điểm phạt đền thứ nhất vẫn cách xa điểm giữa của đường cầu môn 6m.
3. Trong những trận đấu giữa các câu lạc bộ có thể dùng mặt sân bằng cỏ tự nhiên, cỏ nhân tạo hoặc bằng đất nhưng không được dùng trong những trận đấu quốc tế.
Bóng phải hình tròn, chất liệu vỏ ngoài của bóng phải bằng da hoặc chất liệu khác được công nhận. Không được sử dụng những chất liệu có thể gây nguy hiểm cho cầu thủ.
1. Trong những trận đấu quốc tế không được dùng loại bóng làm bằng nỉ.
2. Độ nảy của bóng trong lần thả đầu tiên từ tầm cao 2m: tối đa là 65cm và tối thiểu là 50cm.
3. Có thể sử dụng các loại bóng khác (như loại bóng số 5 với độ nảy thấp hơn, nặng hơn v.v) tuy nhiên trong những trận đấu quốc tế nhất thiết phải sử dụng loại bóng đúng theo Luật định.
4. Đối với những trận đấu do FIFA hoặc các Liên đoàn bóng đá khu vực tổ chức, chỉ có những quả bóng đã qua kiểm nghiệm và đạt được những yêu cầu kỹ thuật tối thiểu theo Luật II mới được sử dụng. Bóng chỉ được phép sử dụng thi đấu nếu có một trong những dòng chữ chỉ dẫn sau đây:
1. Mỗi trận đấu phải có hai đội, mỗi đội có tối đa là 5 cầu thủ, trong đó có một thủ môn.
2. Trong bất kỳ trận đấu nào của một giải chính thức do FIFA, Liên đoàn bóng đá Châu lục hay Liên đoàn bóng đá quốc gia điều hành đều có quyền thay đổi cầu thủ thi đấu bằng cầu thủ dự bị.
3. Số lượng cầu thủ dự bị tối đa là 7.
4. Số lần thay đổi cầu thủ dự bị (kể cả thay thế thủ môn dự bị) trong một trận đấu không hạn chế và có thể được tiến hành cả khi bóng trong cuộc hoặc ngoài cuộc. Cầu thủ đã thay ra sân vẫn được quyền vào lại sân thay cầu thủ khác.
5. Việc thay cầu thủ dự bị phải được thực hiện đúng các quy định sau đây:
6. Cầu thủ nào cũng có thể thay vị trí của thủ môn nhưng phải báo trước cho một trong hai trọng tài biết và việc thay người phải tiến hành vào lúc trận đấu tạm dừng và phải thay trang phục như quy địnhtrong Điều 5 Luật IV (trang phục cầu thủ).
Cách xử phạt:
1. Để bắt đầu trận đấu, mỗi đội phải có 5 cầu thủ.
2. Trong trường hợp nhiều cầu thủ bị truất quyền thi đấu, nếu một trong hai đội không còn đủ 3 cầu thủ trên sân, trọng tài cho dừng trận đấu và làm báo cáo gửi về Ban tổ chức giải.
1. Cầu thủ không được mang bất kỳ vật gì gây nguy hiểm cho các cầu thủ khác.
2. Trang phục cơ bản của một cầu thủ gồm có: áo thun, quần đùi, bít tất dài, bọc ống quyển và giày đá bóng. Chỉ loại giầy bằng vải, da mềm hay giầy thể thao đế cao su mềm hoặc chất liệu tương tự mới được sử dụng. Việc mang giầy là bắt buộc.
3. Áo cầu thủ phải có số và các cầu thủ trong đội phải có số áo khác nhau. Màu áo của cầu thủ 2 đội phải khác mầu nhau và khác mầu với trọng tài.
4. Thủ môn được quyền mặc quần dài và thủ môn phải mặc áo có màu dễ dàng phân biệt với các cầu thủ khác và trọng tài.
5. Trường hợp cầu thủ đang thi đấu trong sân muốn thay thế thủ môn, cầu thủ đó mặc áo thủ môn đúng số áo mà cầu thủ đó đăng ký.
Cách xử phạt:
Bất kỳ cầu thủ nào vi phạm điều luật này sẽ được trọng tài mời ra khỏi sân để chỉnh lại trang phục. Khi trang phục đã chỉnh tề, muốn trở lại sân phải chờ lúc bóng ngoài cuộc và phải được sự đồng ý của một trong hai trọng tài.
Bọc ống quyển phải được bít tất dài che kín hoàn toàn và chất liệu của bọc ống quyền phải có khả năng bảo vệ (như cao su, nhựa, xốp hoặc chất liệu tương tự).
Mỗi trận đấu có một trọng tài chính điều khiển. Quyền hạn, nhiệm vụ của trọng tài chính do Luật Bóng đá quy định và có hiệu lực ngay khi trọng tài bước vào sân và kết thúc khi trọng tài rời khỏi sân.
Trọng tài có quyền xử phạt tất cả các lỗi vi phạm kể cả trong những lúc trận đấu tạm dừng hoặc khi bóng ngoài cuộc. Mọi quyết định của trọng tài trong trận đấu, kể cả kết quả trận đấu là những quyết định cuối cùng.
Nhiệm vụ và quyền hạn của trọng tài chính:
1. Đảm bảo việc áp dụng Luật Bóng đá.
2. Không thổi phạt những lỗi có thể tạo lợi thế cho đội phạm lỗi.
3. Ghi nhận mọi sự cố diễn biến trước, trong và sau trận đấu.
4. Đảm nhiệm việc theo dõi thời gian thi đấu trong trường hợp không có thư ký bấm giờ và trọng tài thứ ba.
5. Có quyền dừng trận đấu vì bất kỳ vi phạm nào về Luật bóng đá. Tạm dừng hoặc dừng hẳn trận đấu xét thấy cần thiết vì những sự cố can thiệp của khán giả hay những lý do khác. Trong những trường hợp như thế trọng tài phải gửi báo cáo chi tiết kịp thời cho ban tổ chức có thẩm quyền đúng theo quy định của Liên đoàn bóng đá Quốc gia mà trận đấu được tổ chức.
6. Ngay khi bước vào sân, trọng tài có quyền cảnh cáo đối với bất cứ cầu thủ nào có hành vi khiếm nhã, vi phạm Luật và nếu tái phạm sẽ truất quyền thi đấu cầu thủ đó. Trong những trường hợp như thế, trọng tài phải gửi danh sách cầu thủ phạm lỗi kịp thời về cho ban tổ chức có thẩm quyền đúng theo quy định của Liên đoàn bóng đá Quốc gia.
7. Trừ cầu thủ và trọng tài thứ 2, không cho phép bất kỳ người nào vào sân khi không được sự cho phép của trọng tài chính.
8. Dừng trận đấu nếu nhận thấy có cầu thủ bị chấn thương trầm trọng, cho đưa ngay cầu thủ đó ra khỏi sân và lập tức cho trận đấu tiếp tục. Nếu có cầu thủ bị chấn thương nhẹ thì trọng tài đợi bóng ngoài cuộc mới dừng trận đấu. Cầu thủ đó nếu có khả năng đi tới đường biên ngang hoặc biên dọc để chăm sóc thì phải được chăm sóc ngoài sân.
9. Truất quyền thi đấu bất kỳ cầu thủ nào theo nhận định của trọng tài - phạm lỗi thô bạo, có hành vi bạo lực hoặc dùng lời lẽ thoá mạ, thô tục.
10. Ra hiệu cho trận đấu tiếp tục lại sau mỗi lần dừng trận đấu.
11. Quyết định bóng thi đấu đúng theo quy định của Luật II.
1. Trường hợp trọng tài chính và trọng tài thứ hai phát hiện lỗi cùng một lúc nhưng không thống nhất được đội nào hưởng quả phạt thì quyền quyết định thuộc về trọng tài chính.
2. Trọng tài chính và trọng tài thứ hai có quyền cảnh cáo hoặc truất quyền thi đấu cầu thủ nhưng trong trường hợp không thống nhất được với nhau, thì quyền quyết định thuộc về trọng tài chính.
Mỗi trận đấu có một trọng tài thứ 2 hoạt động ở phía đối diện với trọng tài chính.
Trọng tài thứ 2 cũng có quyền hạn như trọng tài chính trừ những nội dung được đề cập trong mục 4 Luật V.
Trọng tài thứ 2 còn có quyền dừng trận đấu vì bất kỳ vi phạm nào về Luật Bóng đá như phần đầu mục 5 Luật V đã ghi.
Ngoài ra, trọng tài thứ 2 còn có nhiệm vụ sau đây:
Trong những trường hợp có sự can thiệp thiếu trách nhiệm của trọng tài thứ 2, trọng tài chính có quyền thay trọng tài thứ 2 đồng thời báo cáo sự việc về Ban tổ chức có thẩm quyền.
Trọng tài thứ 2 phải trang bị còi.
1. Trong những trận đấu quốc tế nhất thiết phải có trọng tài thứ 2.
2. Trường hợp tài chính và trọng tài thứ 2 phát hiện lỗi cùng một lúc nhưng không thống nhất được đội nào được đá phạt thì quyền quyết định thuộc về trọng tài chính (xem những quyết định của Luật V).
3. Trọng tài chính và trọng tài thứ 2 có quyền cảnh cáo hoặc truất quyền thi đấu của một cầu thủ nhưng khi không thống nhất được với nhau thì quyền quyết định thuộc về trọng tài chính (xem những quyết định của Luật V).
Trong những trận đấu quốc tế phải có trọng tài thứ 3 hoạt động cùng với thư ký bấm giờ. Dưới đây là nhiệm vụ của 2 quan chức này.
1. Đảm bảo thời gian thi đấu theo đúng các điều khoản của Luật VIII.
Để làm việc đó phải:
2. Theo dõi thời gian hội ý 1 phút và thời gian 2 phút dành cho đội có cầu thủ bị truất quyền thi đấu."
3. Dùng ký hiệu hoặc tiếng còi (khác hẳn với tiếng còi của 2 trọng tài) báo hiệu khi kết thúc hiệp 1, hiệp 2, các hiệp phụ (nếu có) và báo hết thời gian hội ý.
4. Theo dõi các lần hội ý của mỗi đội, giúp hai trọng tài và hai đội thực hiện các lần hội ý, ra hiệu cho phép hội ý mỗi khi huấn luyện viên yêu cầu.
5. Theo dõi việc trọng tài xử phạt 5 lỗi Stổng hợp⬝ đầu của mỗi đội trong từng hiệp và kịp thời báo hiệu cho trọng tài khi có đội bóng đã vi phạm đủ 5 lỗi Stổng hợp⬝.
6. Theo dõi những lần dừng trận đấu với lý do cụ thể, ghi vào biên bản những cầu thủ ghi bàn, bị cảnh cáo, bị truất quyền thi đấu, những lần hội ý hoặc bất kỳ thông tin gì khác có liên quan đến trận đấu.
Trong trường hợp có sự can thiệp thiếu trách nhiệm của thư ký bấm giờ hoặc trọng tài thứ 3, trọng tài chính có quyền bác bỏ và thay thư ký bấm giờ hoặc trọng tài thứ 3 khác, đồng thời báo cáo sự việc lên Ban tổ chức có thẩm quyền.
Thư ký bấm giờ sử dụng đồng hồ và những thiết bị cần thiết nhằm thông báo lỗi Stổng hợp⬝ do Liên đoàn bóng đá hoặc Ban tổ chức thi đấu trang bị.
1. Theo dõi hoạt động của thư ký bấm giờ.
2. Theo dõi và ghi chép 5 lỗi Stổng hợp⬝ đầu của từng đội bóng trong mỗi hiệp và báo hiệu ngay cho trọng tài sau thời điểm đội bóng nào đã bị phạt đủ 5 lỗi Stổng hợp⬝.
3. Ghi chép những lần tạm dừng và nguyên nhân tạm dừng trận đấu, những cầu thủ ghi bàn thắng, cầu thủ bị phạt thẻ vàng, thẻ đỏ và cung cấp bất kỳ những thông tin nào có liên quan đến trận đấu.
Trường hợp có trọng tài bị chấn thương không tiếp tục làm nhiệm vụ được nữa, trọng tài thứ 3 có thể sẽ là người thay thế với nhiệm vụ trọng tài chính hoặc trọng tài thứ 2.
1. Một trận đấu gồm 2 hiệp, mỗi hiệp 20 phút.
2. Việc theo dõi từng trận đấu do thư ký bấm giờ chịu trách nhiệm như quy định ở Luật VII.
3. Ngay trước khi kết thúc mỗi hiệp đấu, một đội bóng được hưởng quả phạt đền hiệp đấu đó phải được kéo dài đủ để thực hiện xong quả phạt đó.
4. Trong mỗi hiệp đấu, các đội được quyền hội ý một lần với thời gian 1 phút nhưng phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
5. Thời gian nghỉ giữa 2 hiệp không quá 15 phút.
1. Trong trường hợp không có thư ký bấm giờ và trọng tài thứ 3, trọng tài chính phải đảm nhiệm thêm việc theo dõi thời gian trận đấu.
2. Trong trường hợp đó, huấn luyện viên yêu cầu hội ý phải qua trọng tài thứ 2.
3. Nếu điều lệ giải có quy định đấu thêm 2 hiệp phụ sau khi kết thúc 2 hiệp chính vẫn hoà, thì trong các hiệp phụ không có lần hội ý.
1. Trước khi trận đấu bắt đầu, việc chọn sân hoặc đá quả giao bóng phải được xác định bằng cách tung đồng tiền. Đội được quyền ưu tiên sẽ chọn sân hoặc đá quả giao bóng trước.
Sau khi trọng tài chính thổi còi để trận đấu bắt đầu, cầu thủ đội được giao bóng đá quả bóng ở điểm trung tâm sân về phía sân đối phương. Các cầu thủ phải đứng trên nửa phần sân của đội mình, các cầu thủ đội không được giao bóng phải đứng cách xa bóng ít nhất là 3m. Bóng vào cuộc sau khi được đá và di chuyển. Cầu thủ đá quả giao bóng không được chạm bóng lần thứ 2 nếu bóng chưa chạm hoặc đá bởi cầu thủ khác.
2. Sau mỗi bàn thắng, trận đấu được tiếp tục bằng quả giao bóng theo quy định nói trên. Đội vừa bị thua được quyền giao bóng.
3. Bắt đầu hiệp 2, hai đội đổi sân và đội không được giao bóng ở hiệp 1 được quyền giao bóng ở hiệp 2.
Cách xử phạt:
1. Khi giao bóng không thực hiện đúng những quy định 1, 2 và 3 sẽ phải giao bóng lại.
Trường hợp cầu thủ giao bóng lại đá bóng lần nữa trước khi bóng chạm hoặc đá bởi cầu thủ khác, thì đội đối phương được hưởng quả phạt gián tiếp tại điểm phạm lỗi. Nếu điểm phạm lỗi nằm trong khu phạt đền thì quả phạt gián tiếp được thực hiện trên vạch 6m, gần nơi phạm lỗi nhất.
Bóng đá từ quả giao bóng trực tiếp vào cầu môn bàn thắng được công nhận.
1. Sau lúc tạm dừng trận đấu vì bất kỳ lý do gì không ghi trong Luật và lúc đó bóng chưa vượt khỏi các đường giới hạn, thì trận đấu được tiếp tục bằng quả Sthả bóng chạm đất⬝ do một trong hai trọng tài thực hiện tại điểm bóng dừng. Nếu lúc đó, bóng dừng ở khu phạt đền, thì quả Sthả bóng chạm đât⬝ sẽ được thực hiện trên vạch 6m gần vị trí bóng dừng nhất.
2. Bóng được tính là trong cuộc sau khi chạm mặt sân. Tuy nhiên bóng được thả xuống nếu vượt ra ngoài biên dọc hoặc biên ngang trước khi cầu thủ chạm bóng, trọng tài cho thực hiện lại. Không cầu thủ nào được đá bóng khi bóng chưa chạm mặt sân. Nếu vi phạm trọng tài sẽ thực hiện lại quả thả bóng chạm đất.
Bóng ngoài cuộc là:
Ngoài hai trường hợp trên, bóng được kể là trong cuộc từ lúc bắt đầu trận đấu cho đến khi kết thúc trận đấu, kể cả các trường hợp sau:
1. Bề rộng của vạch giới hạn được tính nằm trong diện tích của khu vực đó. Do đó bề rộng của các biên dọc, biên ngang thuộc vào diện tích của sân.
2. Khi trận đấu diễn ra trong sân có mái che, nếu bóng chạm trần, trận đấu tạm dừng và sẽ được tiếp tục như sau:
Quyết định 2:
Đội không có cầu thủ đá bóng chạm trần sẽ được thực hiện quả đá biên tại giao điểm giữa đường biên dọc với đường Stưởng tượng⬝ song song với biên ngang, đi qua điểm đối diện (trên mặt sân) với điểm bóng chạm trần.
Bàn thắng được công nhận khi quả bóng đã hoàn toàn vượt khỏi biên ngang giữa hai cột và dưới xà ngang của cầu môn, trừ:
Đội ghi điểm bàn thắng hơn là đội thắng. Nếu 2 đội không ghi được bàn thắng hoặc có số bàn thắng bằng nhau thì trận đấu được coi là hoà.
Cầu thủ vi phạm một trong 6 lỗi sau đây mà theo nhận định của trọng tài tuy không cố tình nhưng đã dùng sức mạnh quá mức cần thiết hoặc do bất cẩn:
Và cầu thủ vi phạm một trong 4 lỗi sau đây:
Sẽ bị phạt quả phạt trực tiếp do đội đối phương thực hiện tại nơi phạm lỗi.
Nếu cầu thủ cố tình vi phạm 1 trong 10 lỗi trên trong khu phạt đền của đội mình, sẽ bị phạt quả phạt đền 6m bất kể bóng ở vị trí nào và trong cuộc. Chỉ những lỗi phạt trực tiếp mới được tính là lỗi tổng hợp.
Thủ môn phạm một trong những lỗi sau đây sẽ bị phạt quả gián tiếp:
1. Nếu sau khi phát bóng, lại nhận bóng trở lại từ cầu thủ đồng đội chuyển về mà bóng chưa vượt qua vạch giữa sân hoặc chưa chạm hoặc đá bởi cầu thủ đối phương.
2. Nếu dùng tay chạm hoặc bắt bóng từ quả chuyển về của đồng đội.
3. Nếu dùng tay chạm hoặc bắt bóng từ quả đá biên về của đồng đội.
4. Nếu khống chế bóng bằng tay hoặc bằng chân ở bất cứ điểm nào thuộc phần sau đội mình lâu quá 4 giây.
Hoặc theo nhận định của trọng tài, cầu thủ vi phạm một trong những lỗi sau đây, sẽ bị phạt quả gián tiếp.
Quả phạt gián tiếp cho đội đối phương được hưởng tại vị trí phạm lỗi. Nếu vị trí phạm lỗi xảy ra trong khu phạt đền, quả phạt gián tiếp được thực hiện tại điểm trên đường 6m nơi gần vị trí phạm lỗi nhất. Cầu thủ bị cảnh cáo (thẻ vàng) nếu:
Nếu phạm một trong những lỗi trên, cầu thủ bị cảnh cáo và bị phạt quả gián tiếp tại nơi phạm lỗi, trừ trường hợp vi phạm luật trầm trọng hơn. Nếu phạm lỗi trong khu phạt đền của đội mình, quả phạt gián tiếp sẽ được thực hiện trên vạch 6m nơi gần vị trí phạm lỗi nhất.
Cầu thủ sẽ bị truất quyền thi đấu (thẻ đỏ) nếu theo nhận định của trọng tài cầu thủ:
Nếu trọng tài dừng trận đấu để truất quyền thi đấu cầu thủ phạm một trong 2 lỗi (6) hay (7), và không vi phạm lỗi nào khác theo quy định của luật, thì trận đấu tiếp tục bằng quả phạt gián tiếp do đối phương thực hiện tại chỗ phạm lỗi. Tuy nhiên nếu phạm lỗi trong khu phạt đền thì quả phạt gián tiếp sẽ được thực hiện trên vạch 6m gần nơi phạm lỗi nhất.
1. Theo nhận định của trọng tài, nếu một cầu thủ đang di chuyển về hướng cầu môn đối phương với cơ hội ghi bàn rõ ràng mà bị đối phương cố tình truy cản trái phép (có nghĩa là hành vi phạm lỗi phải phạt quả trực tiếp) thì sẽ bị truất quyền thi đấu vì lối chơi thô bạo đó.
2. Theo nhận định của trọng tài, nếu một cầu thủ không phải là thủ môn ở trong khu phạt đền của đội mình dùng tay ngăn cản bàn thắng hoặc một cơ hội ghi bàn rõ ràng của đối phương sẽ bị truất quyền thi đấu vì lối chơi thô bạo đó.
3. Cầu thủ bị truất quyền thi đấu không được vào lại sân và cũng không được ngồi ở dãy ghế dành cho cầu thủ dự bị. Đội có cầu thủ bị truất quyền thi đấu sẽ phải thi đấu thiếu người trong 2 phút. Thời gian 2 phút phạt có thể rút ngắn khi trận đấu có bàn thắng. Điều này được quy định như sau:
Những quả phạt được phân làm 2 loại: Trực tiếp⬝ (bàn thắng được công nhận nếu bóng trực tiếp vào cầu môn đối phương) và Gián tiếp⬝ (bàn thắng chỉ được công nhận nếu trước khi vào cầu môn, bóng đã chạm hoặc được đá bởi một cầu thủ khác).
Khi một cầu thủ thực hiện quả phạt, các cầu thủ đối phương phải đứng cách bóng tối thiểu là 5m cho đến khi bóng đá rời chân và di chuyển. Trường hợp cầu thủ đối phương xông vào hoặc đứng không đủ cự ly 5m trước khi quả bóng được đá đi, trọng tài phải cho thực hiện lại (nếu bóng đã được đá đi) hoặc dừng việc thực hiện quả phạt cho tới khi mọi người thực hiện đúng quy định của Luật.
Bóng phải để chết khi thực hiện quả phạt và cầu thủ vừa đá phạt không được chạm bóng lần thứ 2 khi bóng chưa chạm hoặc đá bởi một cầu thủ khác.
Cách xử phạt:
1. Chỉ những lỗi phạt trực tiếp được ghi trong luật XII mới được tính vào số lỗi tổng hợp.
Những quả phạt lỗi tổng hợp trực tiếp vào cầu môn được công nhận bàn thắng.
2. Năm lỗi tổng hợp đầu của mỗi đội trong mỗi hiệp phải được ghi vào biên bản khi kết thúc trận đấu.
3. Trong 5 lỗi tổng hợp đầu của mỗi đội ở mỗi hiệp khi thực hiện quả phạt, đối phương được quyền làm hàng rào nhưng phải đứng cách xa bóng tối thiểu 5m.
4. Nhưng bắt đầu từ lỗi tổng hợp thứ 6 trở đi, đối phương không được quyền làm hàng rào khi thực hiện quả phạt.
1. Cầu thủ thực hiện quả phạt phải đá bóng với ý đồ ghi bàn chứ không được phép chuyển bóng cho cầu thủ khác.
2. Khi quả phạt đang thực hiện, không một cầu thủ nào được chạm bóng cho tới khi bóng đụng thủ môn hoặc bật ra từ cột dọc, xà ngang hay ra ngoài các đường giới hạn của sân.
3. Những quả phạt này không được thực hiện ở cự ly cách đường biên ngang dưới 6m, điểm đặt bóng đá phạt phải dời lên vị trí tương ứng với điểm phạm lỗi và cách đường biên ngang 6m. Khi có lỗi phạt gián tiếp trong khu phạt đền, điểm đặt bóng đá phạt phải ở trên đường 6m nơi gần vị trí phạm lỗi nhất.
4. Khi cầu thủ phạm lỗi tổng hợp thứ 6 trên phần sân đối phương hoặc trên phần sân của đội mình được giới hạn bởi đường giữa sân với đường tưởng tượng ngang qua chấm phạt đền thứ 2 và song song với đường biên ngang, đội đối phương sẽ được thực hiện quả phạt ngay tại chấm phạt đền thứ 2 của đội phạm lỗi. Chấm phạt đền thứ 2 nói rõ trong Luật I mục 5. Quả phạt phải được thực hiện theo những điều khoản quy định trong mục A.
5. Khi cầu thủ phạm lỗi tổng hợp thứ 6 trên phần sân đội nhà được giới hạn giữa đường song song với biên ngang đi qua chấm phạt đền thứ 2 và đường biên ngang cuối sân. Đội tấn công được quyền tự chọn một trong 2 vị trí đá phạt là điểm phạm lỗi hay điểm phạt đền thứ 2.
6. Nếu trận đấu phải đá thêm 2 hiệp phụ, thì những lỗi tổng hợp của hiệp 2 vẫn còn giá trị để tính lỗi tổng hợp trong 2 hiệp phụ.
Bất kỳ vi phạm nào với quy định của Luật rơi vào:
Đội bóng có cầu thủ phạm một trong những lỗi phạt trực tiếp nếu vị trí phạm lỗi trong khi phạt đền của đội mình lúc bóng đang trong cuộc - sẽ bị phạt quả phạt đền.
Từ quả phạt đền, bóng được đá trực tiếp vào cầu môn đội phạm lỗi, bàn thắng được công nhận.
Khi có quả phạt đền ở phút cuối của mỗi hiệp chính, hiệp phụ, phải bù thêm thời gian để thực hiện xong quả phạt đền.
1. Vị trí đặt bóng và cầu thủ:
2. Trình tự thực hiện quả phạt:
Khi quả phạt đền được thực hiện trong 2 hiệp chính, hiệp phụ, trong thời gian bù thêm để thực hiện xong quả phạt đền hoặc khi thực hiện lại quả phạt đền. Bàn thắng được công nhận nếu trước khi vượt qua đường cầu môn giữa 2 cột dọc và dưới xà ngang, bóng có chạm các cột dọc, xà ngang hoặc người thủ môn.
3. Những vi phạm và xử phạt:
Khi quả bóng hoàn toàn vượt khỏi đường biên dọc dù ở mặt sân hoặc ở trong không gian, cầu thủ của đội không chạm bóng cuối cùng được đá biên về bất kỳ hướng nào tại vị trí bóng vượt khỏi đường biên dọc. Lúc thực hiện quả đá biên, cầu thủ có thể giẫm một phần chân lên đường biên dọc hoặc đứng hẳn ngoài sân. Bóng phải đặt chết trên đường biên dọc và được coi là trong cuộc ngay khi được đá rời chân và di chuyển. Cầu thủ đá biên không được chạm bóng lần thứ 2 nếu bóng chưa chạm hoặc được đá bởi cầu thủ khác.
Các cầu thủ đối phương phải đứng cách bóng tối thiểu 5m.
Bàn thắng không được công nhận từ quả đá biên trực tiếp vào cầu môn.
Cách xử phạt:
Trường hợp phạm lỗi trong khu phạt đền, quả phạt đền sẽ được đặt trên vạch 6m gần chỗ phạm lỗi nhất.
Khi quả bóng hoàn toàn vượt ra khỏi đường biên ngang dù ở mặt sân hay ở trên không, phía ngoài khung cầu môn mà người chạm bóng cuối cùng là cầu thủ đội tấn công, thủ môn đội phòng thủ được thực hiện quả ném phát bóng.
Cách xử phạt:
Khi bóng hoàn toàn vượt ra đường biên ngang phía ngoài khung cầu môn, dù ở mặt sân hoặc ở trên không mà đội phòng thủ là người chạm cuối cùng - cầu thủ đội tấn công sẽ được hưởng quả phạt góc.
Cách xử phạt:
Thi đá luân lưu 6m nhằm xác định đội thắng trong những trận đấu loại trực tiếp có kết thúc hoà.
1. Trọng tài chọn cầu môn để thi đá luân lưu.
2. Trọng tài tung đồng tiền, đội được thăm đá quả đầu tiên.
3. Trọng tài phải ghi chép kết quả qua mỗi lần đá.
4. Nguyên tắc mỗi đội được đá 5 quả với quy định:
© 2019 by YouSport.vn. All rights reserved. Designed & developed by YouSport.vn